Tinh dầu hoa anh thảo đối với phụ nữ sau khi sinh?

Từ lâu, dầu hoa anh thảo đã được phụ nữ yêu thích nhờ khả năng làm chậm quá trình lão hóa, giảm các triệu chứng khó chịu do suy giảm nội tiết tố.

Bên cạnh niềm vui được làm mẹ, phụ nữ sau sinh thường phải đối mặt với tình trạng rối loạn nội tiết tố, với những triệu chứng như da xấu, tóc khô xơ, giảm ham muốn…

Lý giải về vấn đề này, BS Lê Thị Kim Dung – nguyên Phó giám đốc Viện Sức khỏe sinh sản – cho biết nguyên nhân dẫn tới những thay đổi của phụ nữ sau sinh là do sự sụt giảm đột ngột của nồng độ nội tiết tố nữ estrogen, nhường chỗ cho prolactin (hormone tiết sữa) để người mẹ có sữa cho con bú. Điều này khiến cơ thể phụ nữ rơi vào tình trạng mất cân bằng nội tiết tố, với các dấu hiệu như da xấu, tóc khô xơ, cơ thể dễ tăng câng, đặc biệt là sinh lý suy giảm.

Theo BS Dung, một thảo mộc được phụ nữ châu Âu ưa dùng để hỗ trợ phục hồi cơ thể sau sinh là dầu hoa anh thảo, hay còn gọi là oenothera. Loại cây này đã được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. “Oenothera chứa nhiều axit béo omega-6 cùng linoleic, axit gamma linolenic, vitamin E…, góp phần làm chậm quá trình lão hóa da, làm giảm các triệu chứng do suy giảm nội tiết tố ở phụ nữ”.

Oenothera (hoa anh thảo) có nhiều công dụng tốt cho sức khỏe phụ nữ sau sinh.

Do vậy, bên cạnh việc thay đổi lối sống, chế độ ăn uống sinh hoạt khoa học thì oenothera được xem là trợ thủ đắc lực của phụ nữ sau sinh.

Theo PGS Nguyễn Thượng Dong – nguyên Viện trưởng Viện Dược liệu Trung ương: “Oenothera sẽ phát huy công dụng tốt hơn khi kết hợp với dầu hạt lanh, vitamin E và axit alpha lipoic – những thành phần giàu chất chống ôxy hóa, làm chậm quá trình lão hóa da. Đây đều là những thành phần hỗ trợ làm chậm lão hóa, cân bằng nội tiết tố”.

Cách chăm sóc da nhạy cảm đúng cách mỗi ngày

Da nhạy cảm dễ mụn. Mụn lại khiến tâm trạng nàng càng trở nên nhạy cảm. Làm sao để vượt qua vòng lẩn quẩn này và tự tin yêu chính mình?

“Da mụn” là một câu chuyện buồn hai chữ nhưng chất chứa mọi cung bậc cảm xúc và tình huống ức chế. Lúc da bị mụn, đầu bạn hẳn lúc nào cũng nghĩ xem làm sao để che khuyết điểm, ăn gì để lành da… Mỗi lần tụ họp gia đình, bè bạn, mọi người lại thi nhau cho bạn lời khuyên để hết mụn. Lâu dần, chuỗi ngày sống chung với mụn dễ biến một cô gái trở nên tự ti, nhạy cảm hơn.

Hàng rào bảo vệ trên da nhạy cảm thường rất yếu ớt, thiếu khả năng chống chọi trước các tác nhân gây mụn như ô nhiễm môi trường hay nhiệt độ chênh lệch. Cộng thêm tinh thần dễ căng thẳng, âu lo…, tình trạng mụn rất khó cải thiện hay chấm dứt.

Da mụn và nhạy cảm là combo “oan gia” không cô nàng nào muốn.

Để cải thiện tình trạng mụn cũng như phục hồi da nhạy cảm, các nàng cần biết chăm sóc cho cả làn da và tinh thần. Cụ thể, các sản phẩm trị mụn thường chứa thành phần kháng khuẩn mạnh, dễ gây khô da và cảm giác châm chích. Dù tình trạng mụn cải thiện, làn da có thể trở nên nhạy cảm hơn. Do vậy, bạn cần kết hợp dưỡng ẩm khi sử dụng các sản phẩm trị mụn, đồng thời lựa chọn những sản phẩm có thành phần dịu nhẹ để tránh gây kích ứng nốt mụn.

Da nhạy cảm cần tránh sử dụng sản phẩm có chứa những thành phần này

Nhiều nàng có ý thức cho việc chăm sóc body rất kỹ càng. Đặc biệt, rất nhiều nàng dùng kem make-up body cho mình. Đây hoàn toàn là thói quen tốt cần được duy trì và phát huy. Nhưng dù dùng kem dưỡng trắng da body hay kem make-up body, để đảm bảo cho quá trình chăm sóc hiệu quả nàng cũng nên biết cách đọc thành phần kem sao cho phù hợp cho mình nhé!

1. Thành phần Parabens

Parabens được dùng với mục đích gia tăng thời hạn sử dụng cho mỹ phẩm. Chính vì điều này mà nó mang lại khá nhiều tác dụng phụ không tốt cho làn da người dùng. Trong các sản phẩm kem make-up body tuyệt đối không nên có thành phần này.

Nhiều khuyến cáo đã cảnh bảo về tác hại mà Parabens đến nội tiết tố cũng như khả năng sinh sản của phụ nữ sau này, đặc biệt là các nàng có làn da nhạy cảm. Giải pháp cho bạn là hãy chọn loại kem make-up body không chứa Parabens hoặc nếu chứa thì phải trong tỉ lệ an toàn cho phép cho chính sức khỏe của bạn.

2. Silicone

Do tính năng che phủ cực tốt, mang lại sự mịn màng cho làn da khi sử dụng. Cho nên silicone được sử dụng khá nhiều trong kem make-up body. Nhưng bạn gái có biết, chính thành phần silicone này lại là nguyên nhân khiến cho lỗ chân lông trên bề mặt da của bạn bị tắc nghẽn, tình trạng da nhờn dầu thì lại bị kích thích đổ dầu nhiều hơn?

Các chuyên gia khuyến cáo nếu sử dụng thường xuyên và với liều lượng lớn silicon có thể gia tăng nguy cơ tổn thương da, hay tệ hơn là ung thư. Cách tốt nhất là khi chọn mua kem make-up body là hãy loại trừ sản phẩm có thành phần silicone độc hại này.

Hoặc hãy chọn những dạng khác của silicone có tác hại giảm nhẹ hơn nhiều như: Dimethincone hoặc Cyclomethicone. Và trong bảng thành phần, những chất này nên đứng càng ở cuối thì càng tốt.

3. Hương liệu hóa chất

Những mùi hương thơm có sức quyến rũ riêng của nó. Tuy nhiên, việc lạm dụng quá liều lượng và sử dụng hương thơm nhân tạo lại tiềm ẩn những vấn đề nguy hiểm cho sức khỏe của làn da, khứu giác và… gây khó chịu cho những người xung quanh.

Một lượng lớn hương liệu nhân tạo được sử dụng trong các loại kem make-up body khiến chúng có mùi thơm khó chịu. Bạn sẽ phải gặp những tình trạng phản ứng ngay của cơ thể khi gặp phải loại hương liệu này như: buồn nôn, nhức đầu, chóng mặt, phát ban, khó thở…

Nếu thuộc tuýp người dễ dị ứng với mùi hương thì lại càng “nhạy” khi bắt được mùi hóa chất này. Giải quyết triệt để vấn đề này thì nên “từ bỏ” ngay những sản phẩm kem make-up body có hương liệu nhân tạo. Thay vào đó, hãy chọn những sản phẩm có hương thơm nhẹ nhàng được chiết xuất từ thiên nhiên, mỹ phẩm hữu cơ hoặc không mùi để bảo đảm sự an toàn ở mức cao nhất.

Có những thành phần bắt buộc phải có trong kem make up body để đảm bảo hiệu quả khi sử dụng. Nhưng cũng có những thành phần không nên có trong kem make up body. Các nàng nên biết thông tin về những thành phần này nhằm tránh mua phải kem make-up body không phù hợp khiến hiệu quả sử dụng bị ảnh hưởng nhé! Chúc các nàng luôn đẹp!

Điều kiện để vận chuyển Vaccine ngừa Covid-19

Việc triển khai chiến dịch tiêm chủng hàng loạt vắc-xin ngừa COVID-19 đã đặt ra yêu cầu về chuỗi cung ứng lạnh trên toàn cầu, vì vắc-xin BNT162b2 của Pfizer phải được bảo quản ở nhiệt độ khoảng -70 độ C, còn vắc-xin MRNA-1273 của Moderna phải được bảo ở khoảng -20 độ C.

Chuỗi cung ứng lạnh

Vắc-xin Pfizer (của Mỹ – Đức) phải được bảo quản ở khoảng -70 độ C. Trong khi các vắc-xin khác như Moderna (của Mỹ) và AstraZeneca (của Anh – Thụy Điển) không cần bảo quản lạnh sâu đến thế

Ở Mỹ và Canada, hầu hết các lô vắc-xin đều đang được vận chuyển bằng đường bộ và đường hàng không từ địa điểm sản xuất ở Kalamazoo (bang Michigan) và trung tâm phân phối Pleasant Prairie (bang Wisconsin).

Tùy vào khoảng cách, chuỗi cung ứng có thể bao gồm một hoặc nhiều điểm dừng tại các cơ sở lưu trữ trung gian.

Để duy trì nhiệt độ cực thấp, các công ty vận chuyển phải sử dụng tủ lạnh sâu -80 độ C (ULT), đặt trong các container được kiểm soát nhiệt chặt chẽ.

Cả hai thiết bị lưu trữ trên đều có bộ phận cảm biến nhiệt, và bộ ghi dữ liệu giúp theo dõi mọi biến động nhiệt độ ngoài phạm vi cho phép.

Tủ đông ULT cung cấp khả năng bảo quản lâu dài ở nhiệt độ chính xác. Nhược điểm là chúng rất tốn điện, tương đương với lượng điện tiêu thụ bởi một hộ gia đình, đồng nghĩa với việc chi phí vận hành sẽ cao hơn. Kích thước lớn cũng có thể là một vấn đề.

Trong khi đó, hộp trữ lạnh có kích thước nhỏ hơn, có thể vận chuyển dễ dàng hơn. Mỗi hộp trữ lạnh có sức chứa 195 lọ (tương đương gần 1.000 liều vắc-xin). Đơn vị vận chuyển có thể sử dụng đá khô để duy trì nhiệt độ cự thấp. Tuy nhiên, hộp lưu trữ cũng có nhiều hạn chế, là không được mở quá 2 lần/ngày trong tối đa 1 phút, và đá khô phải được thêm mới sau 5 ngày.

Rõ ràng tủ ULT có thể đảm bảo lưu trữ vắc-xin trong thời gian dài hơn, nhưng chúng không phải lúc nào cũng có sẵn, đặc biệt là ở các cơ sở y tế công cộng nhỏ.

Ví dụ, ở California, số lượng cơ sở y tế có tủ ULT rất hạn chế.

Do sự khan hiếm của tủ ULT trong các giai đoạn cuối cùng của chuỗi cung ứng vắc-xin, nên thùng lạnh được sử dụng phổ biến hơn. Tuy nhiên, khi sử dụng thùng lạnh, thời gian trở thành yếu tố đặc biệt quan trọng.

Khi ấy, vắc-xin phải nhanh chóng được đưa vào sử dụng để không ảnh hưởng đến hoạt lực.

Đồ họa: Aljazeera

Trong khi tủ đông ULT có thể bảo quản vắc-xin Pfizer’s lên đến 6 tháng, thì với thùng lạnh, thời gian bảo quản tối đa chỉ là 30 ngày.

Sau đó, lọ vắc-xin có thể được rã đông, và bảo quản trong tủ lạnh 2-8 độ C trong tối đa 5 ngày.

Một khi đã rã đông, vắc-xin không thể được cấp đông trở lại. Do đó, tổng thời gian từ khi vắc-xin Pfizer rời tủ lạnh âm sâu đến khi đưa vào sử dụng chỉ được gói gọn trong 35 ngày.

Các vắc-xin không cần tủ lạnh sâu

Hiện, các yêu cầu nghiêm ngặt về dây chuyền lạnh ULT chỉ được áp dụng duy nhất đối với vắc-xin Pfizer.

Với vắc-xin của Moderna’s, nhiệt độ bảo quản là khoảng -20 độ C, có thể được duy trì ở 2-8 độ C trong 30 ngày, và ở nhiệt độ phòng trong tối đa 12 giờ.

Về chiến lược phân phối, vắc-xin của Moderna được đánh giá là phù hợp với khu vực nông thôn – những nơi không có khả năng lưu trữ vắc-xin ở nhiệt độ lạnh âm sâu như yêu cầu của Pfizer.

Vắc-xin AZD1222 của AstraZeneca có thể được lưu trữ, vận chuyển và xử lý ở điều kiện làm lạnh bình thường (2-8 độ C) trong ít nhất 6 tháng.

Vắc-xin NVX-CoV2373 của Novavax có thể được phân phối dưới dạng công thức lỏng, không đông lạnh từ 2-8 độ C.

Vắc-xin Ad26.COV2.S của Janssen (J&J) dự kiến sẽ ổn định trong hai năm ở -20 độ C và trong hơn 3 tháng trong phạm vi 2-8 độ C.

 

Theo Lab Magazine

Cách Virus SAR-CoV-2 đang tồn tại như thế nào?

Giống như mọi virus khác, virus SARS-CoV-2 chỉ có một mục tiêu duy nhất: đó là sinh tồn.

Với virus SARS-CoV-2, cách tốt nhất để chúng kéo dài sự sống chính là tiến hóa. Để làm được vậy, virus phải học cách cân bằng. Nếu virus quá nguy hiểm, nó sẽ khiến vật chủ tử vong trước khi tìm ra một vật chủ khác.

Do đó, mánh khóe của virus chính là trở nên dễ lây lan hơn nhưng ít nguy hiểm hơn bởi điều đó cho phép chúng lan rộng và tồn tại lâu hơn.

Ảnh minh họa: Ash Mills

Chúng ta có lẽ không bao giờ biết chính xác biến thể ở Anh đã sinh ra như thế nào nhưng dường như là trong khoảng 6 tháng đại dịch, virus SARS-CoV-2 đã tìm được một cơ thể hoàn hảo để tạo nên sự chuyển biến này.

Từ một ca mắc đơn lẻ, một thể mới của virus SARS-CoV-2 đã ra đời và nhanh chóng vạch ra một con đường chết chóc trên toàn thế giới.

Bước chuyển biến thay đổi đại dịch

Vào cuối năm 2020, các chuyên gia y tế Anh ngày càng lo ngại về làn sóng Covid-19 thứ hai hoành hành ở quốc gia này. Hồi tháng 9, họ nhận thấy virus SARS-CoV-2 đang lây lan với tỷ lệ nhanh hơn. Đặc biệt khi mùa đông dần tới, số ca mắc ngày một tăng lên.

“Đất nước hiện đối mặt với một bước ngoặt trong việc phản ứng với đại dịch và hiện nay mọi người đều góp phần quan trọng để ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh, cũng như bảo vệ mạng sống của chúng ta”, Bộ trưởng Y tế Anh Matt Hancock cảnh báo vào thời điểm đó.

Câu trả lời cho sự gia tăng số ca mắc Covid-19 là một biến thể mới của SARS-CoV-2 đã xuất hiện. Chỉ trong một vài tháng, nó đã lây lan khắp nước Anh.

 

Biến thể B117 được phát hiện lần đầu tiên ở hạt Kent vào tháng 9/2020 nhưng phải tới ngày 14/12, chính phủ Anh mới xác nhận sự tồn tại của biến thể này. Trong khoảng thời gian đó, biến thể mới đã lan rộng với tỷ lệ đáng lo ngại, gây ra sự tăng vọt số ca mắc ở đông nam England và London.

Các nhà chức trách Anh cảnh báo biến thể mới tăng 70% khả năng lây nhiễm. Những nghiên cứu chi tiết hơn thì cho thấy, biến thể này tăng từ 36 – 71% khả năng lây nhiễm dù xuất hiện ở bất kỳ đâu so với chủng virus ban đầu ở Vũ Hán.

Dù theo cách nào, biến thể B117 thực sự đã thay đổi tình hình đại dịch Covid-19 ở Anh. Chỉ 1 tháng sau, biến thể này đã lây lan ra toàn cầu và tới nay, nó đã hiện diện ở khoảng 80 quốc gia trên thế giới.

Từ một bệnh nhân đến toàn thế giới?

Hoàn cảnh cụ thể dẫn đến sự ra đời của biến thể mới Anh có lẽ mãi là một bí ẩn. Tuy nhiên, hầu hết các nhà khoa học đều đồng ý rằng có lẽ nó đã tiến hóa trong cơ thể của 1 bệnh nhân mắc Covid-19 trong khoảng thời gian lâu hơn thời gian ủ bệnh trung bình là 14 ngày.

Theo nhà virus học Kirsty Short thuộc Đại học Queensland, bệnh nhân này có thể đã mắc Covid-19 trong thời gian dài.

“Có lẽ đây là một bệnh nhân thiếu khả năng đề kháng”, chuyên gia này cho hay.

Lấy ví dụ về virus cúm, bác sĩ Short cho biết: “Những người nhiễm virus cúm trong nhiều tháng có thể tạo ra nhiều biến thể virus hơn một người nhiễm bệnh nặng trong thời gian ngắn”.

“Vì thế, hãy tưởng tượng rằng virus biến chủng một lần mỗi khi chúng sao chép. Nếu virus trong 1 bệnh nhân tự nhân lên 500 lần, sẽ có nhiều đột biến hơn một bệnh nhân mà virus tồn tại trong họ chỉ nhân lên 5 lần”.

Dù vậy, các nhà khoa học đã xác định được ngay từ đầu rằng virus SARS-CoV-2 biến chủng chậm hơn nhiều so với virus cúm và HIV.

Một nghiên cứu ước tính virus SARS-CoV-2 tạo ra khoảng từ 1 – 2 đột biến/tháng. Thế nhưng, biến thể ở Anh lại không như vậy. Nó có 23 đột biến so với chủng virus ban đầu được phát hiện ở Vũ Hán với 17 đột biến trong số đó dường như gần đây mới xuất hiện.

Biến thể khiến các nhà khoa học sửng sốt

Damian Purcell đã trải qua “bất ngờ lớn” khi dữ liệu giải mã gen của virus SARS-CoV-2 trên toàn cầu trong phòng thí nghiệm của ông ở Melbourne vào cuối năm 2020.

Người đứng đầu phòng thí nghiệm virus học phân tử tại Viện Các bệnh truyền nhiễm Pter Doherty ở Melbourne khi đó đang xem xét những thông tin chi tiết về biến thể mới ở Anh.

“Chúng tôi thực sự ngạc nhiên. Chúng tôi đã xem xét điều này và phải thốt lên rằng: ‘Hãy nhìn xem, có bao nhiêu đột biến mà virus đã tạo ra, hãy nhìn xem ở nơi chúng được tạo ra, có quá nhiều đột biến ở protein gai”, ông Damian Purcell cho biết.

Protein gai là bộ phận ở mặt ngoài của virus giúp chúng liên kết với các thụ thể trong cơ thể của chúng ta và lây nhiễm virus sang chúng ta. Nó giống như một chiếc chìa khóa để virus mở cửa và xâm nhập vào cơ thể con người.

“Đó là protein mà chúng tôi quan tâm nhất khi cân nhắc đến hiệu quả của các loại vaccine mà chúng ta đang thử nghiệm”, giáo sư Purcell cho hay.

Biến thể ở Anh không phải trường hợp biến chủng đầu tiên của SARS-CoV-2. Có hàng nghìn phiên bản khác nhau của virus này trên thế giới hiện nay nhưng thường thì các biến thể không gây ảnh hưởng lớn và nhiều biến thể sẽ nhanh chóng biến mất.

Tuy nhiên, hiện nay, virus đã đạt được bước đột phá trong quá trình tiến hóa của nó. Một số biến thể của virus đã tìm được cách để lây nhiễm sang nhiều vật chủ hơn và dần vượt trội so với các chủng khác.

Trong khi hầu hết thế giới tập trung vào biến thể ở Anh thì các chuyên gia khác đang theo dõi chặt chẽ một biến thể mới được phát hiện ở California, Mỹ.

Nếu nói về một đột biến khiến các nhà khoa học lo sợ nhất hiện nay thì đó chính là E484K bởi nó có khả năng thoát khỏi các kháng thể sinh ra từ miễn dịch tự nhiên hoặc thông qua tiêm vaccine.

E484K khiến hệ miễn dịch gặp khó khăn khi đối phó với virus SARS-CoV-2, thậm chí cả khi cơ thể dường như đã “học” được cách để chống lại virus từ việc tiêm vaccine.

Điều khiến các chuyên gia lo ngại là sự xuất hiện của các biến thể sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển các loại vaccine ngừa Covid-19 hiện nay như thế nào?

Đầu tháng này, Nam Phi đã dừng việc phân bổ vaccine Covid-19 của AstraZeneca sau khi một nghiên cứu cho thấy vaccine này chỉ cung cấp được sự bảo vệ tối thiểu với những ca nhiễm biến thể mới ở mức vừa và nhẹ.

Theo chuyên gia Larisa Labzin từ Viện Sinh học Phân tử tại Đại học Queensland, một vaccine Covid-19 hoàn hảo sẽ không bao giờ tồn tại.

Ánh sáng cuối đường hầm

Sự xuất hiện của các biến thể mới cho thấy mối đe dọa từ đại dịch Covid-19 vẫn chưa dừng lai, thậm chí ngay cả khi việc tiêm chủng vaccine ngừa Covid-19 đã diễn ra ở một số nước.

Thay vào đó, theo các chuyên gia y tế công cộng, các biện pháp như đeo khẩu trang, duy trì giãn cách xã hội, rửa tay và tránh tụ tập đông người vẫn là những công cụ cần thiết hơn bao giờ hết để ngăn chặn dịch bệnh lây lan.

Dù vậy, giáo sư Purcell tin rằng cách an toàn nhất để chúng ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng y tế tồi tệ này là vaccine sẽ được phân phối toàn thế giới.

“Chúng ta phải chặn đứng cơ hội virus tạo ra những đột biến nguy hiểm có thể phá vỡ hệ miễn dịch do vaccine tạo ra. Vì thế, càng nhiều người được tiêm vaccine và chúng ta có thể tiêm vacicne càng sớm thì tình hình càng khả quan hơn”, chuyên gia này cho hay.

Top căn bệnh phổ biến nhất toàn cầu năm vừa qua

Ung thư vú ở phụ nữ là loại ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất thế giới trong năm 2020, theo báo cáo mới đây của Cơ quan Nghiên cứu ung thư quốc tế và Hiệp hội Ung thư Mỹ.

Phụ nữ nên thường xuyên kiểm tra vú để sớm phát hiện ung thư

Cụ thể, trong báo cáo mang tên “Global Cancer Statistics 2020” (tạm dịch: “Thống kê ung thư toàn cầu năm 2020”), năm vừa qua toàn thế giới có 19,3 triệu ca ung thư mới, trong đó bệnh ung thư vú ở phụ nữ chiếm 2,3 triệu ca, tương đương 12%.

Đây là lần đầu tiên, một loại bệnh không phải ung thư phổi, trở thành loại ung thư phổ biến nhất toàn cầu. Vào năm 2019, ước tính có 1,8 triệu người mắc ung thư phổi, chiếm 18% tổng số ca, trong khi đó, ung thư vú ở nữ xếp thứ tư với tỷ lệ 7%.

Đại diện nhóm tác giả của báo cáo cho biết: “Nguyên nhân khiến tỷ lệ ung thư vú ở nữ tăng cao phần lớn là do những thay đổi mạnh mẽ trong lối sống và môi trường sống dẫn đến các yếu tố gây ra căn bệnh này như tình trạng ít vận động, thừa cân, uống rượu bia, hoãn sinh, sinh ít, không sinh con hay ít cho con bú bằng sữa mẹ ngày càng phổ biến hơn”.

Cũng theo báo cáo, nhóm nghiên cứu ước tính sẽ có 28,4 triệu trường hợp mắc ung thư mới trên toàn thế giới vào năm 2040, tăng 47% so với năm 2020, bởi tình trạng đô thị hóa, già hóa và tăng trưởng quá nhanh của dân số… đang khiến các yếu tố gây ra bệnh ung thư đe dọa nhiều hơn đến mọi người.

Liệu Vitamin C và Kẽm có tác dụng với người nhiễm nCoV không?

Vitamin C và kẽm được dùng phổ biến trong điều trị cảm lạnh và cúm, song không có nhiều tác dụng với người nhiễm nCoV.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí y khoa JAMA Network Open ngày 12/2. Phó giáo sư, tiến sĩ Erin Michos của Đại học John Hopkins, tác giả công trình phát biểu: “Đáng tiếc là vitamin C và kẽm không có nhiều lợi ích với Covid-19 như nhiều người kỳ vọng”.

Thử nghiệm lâm sàng được tiến hành trên ba nhóm, với 214 người trưởng thành nhiễm nCoV. Nhóm thứ nhất được bổ sung vitamin C, nhóm thứ hai được bổ sung kẽm, nhóm thứ ba được bổ sung cả hai chất trên. Nhóm đối chứng thứ tư không sử dụng các chất này mà chỉ điều trị tiêu chuẩn (nghỉ ngơi, bù dịch, hạ sốt).

“Liều cao kẽm, vitamin C hoặc cả hai, đều không làm giảm các triệu chứng nCoV”, Tiến sĩ Milind Desai, chuyên gia tim mạch của Cleveland Clinic, đồng tác giả nghiên cứu, kết luận.

Dùng liều cao vitamin C và kẽm cũng gây ra nhiều tác dụng không mong muốn. Michos cho biết: “Các tác dụng phụ như buồn nôn, tiêu chảy và co thắt dạ dày được báo cáo nhiều hơn ở nhóm sử dụng chất bổ sung so với nhóm điều trị tiêu chuẩn”.

Nhiều người Mỹ thường dùng vitamin C và kẽm như một biện pháp điều trị hỗ trợ cảm lạnh, cúm do virus. Đây là chất chống oxy hóa và đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hệ miễn dịch. Chưa được chứng minh là giúp ngăn ngừa bệnh tật, nghiên cứu khác đã chỉ ra vitamin C làm giảm 8% các trường hợp cảm lạnh ở người lớn và 14% ở trẻ em.

Nhiều phân tích cho biết kẽm giúp tế bào của cơ thể chống lại tình trạng nhiễm trùng. Mặt khác, thiếu kẽm làm tăng các cytokine tiền viêm và giảm sản xuất kháng thể – một yếu tố quan trọng của quá trình miễn dịch.

Thực phẩm chứa vitamin C và kẽm. Ảnh: Shutterstock

 

Sử dụng quá liều kẽm và vitamin C gây ra nhiều tác dụng phụ. Theo Viện Sức Khỏe Quốc gia Mỹ, dùng vitamin C sau khi các triệu chứng cảm lạnh xuất hiện không mang lại nhiều tác dụng.

Dùng hơn 2.000 mg vitamin C mỗi ngày dẫn tới ợ hơi, ợ nóng, co thắt dạ dày, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy và đau đầu. Lượng vitamin C được khuyến nghị trung bình hàng ngày là 75 mg đối với phụ nữ và 90 mg đối với nam giới trưởng thành.

Dùng trên 40 mg kẽm một ngày có thể gây khô miệng, buồn nôn, chán ăn và tiêu chảy, ngoài ra còn tạo vị kim loại khó chịu khi ăn.

Theo Viện Sức khỏe Quốc gia Mỹ, dùng kẽm lâu dài làm giảm lượng đồng trong máu, giảm khả năng miễn dịch và giảm HDL-cholesterol (một loại cholesterol có lợi cho sức khỏe). Năm 2009, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) cảnh báo không nên sử dụng thuốc xịt mũi chứa kẽm vì chúng có liên quan đến hơn 100 trường hợp mất khứu giác.

Các nhà khoa học đang tiếp tục nghiên cứu vai trò của vitamin và các chất bổ sung khác trong điều trị Covid-19. Một số thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đang được tiến hành nhằm xác định vai trò của vitamin D. Ngoài hỗ trợ phát triển xương khỏe mạnh, vitamin D còn có đặc tính chống viêm.

Các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc đang nghiên cứu hiệu quả của liệu pháp tiêm vitamin C đường tĩnh mạch trong điều trị hỗ trợ những bệnh nhân suy hô hấp nặng phải thở máy. Nhiều công trình khoa học đang được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả của các chất bổ sung như vitamin C, vitamin D và kẽm trong việc phòng ngừa Covid-19. Tuy nhiên, với nghiên cứu mới được công bố này, việc sử dụng vitamin C và kẽm để rút ngắn thời gian nhiễm nCoV dường như không có giá trị.

 

 (Theo CNN)

Các bí quyết để có làn da tươi trẻ hơn

Và dưới đây là 3 điều hữu ích bạn nên thực hiện ngay

Làm đẹp ngay cả lúc ngủ

Nên: Cố gắng ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi ngày. Nếu bạn không đủ giấc thì khi thức dậy bạn sẽ có một làn da thiếu ngủ cũng như bộ quầng thâm kiểu gấu trúc dưới mắt bạn vậy. Vì vậy bạn hãy bôi mật ong lên da từ hai lần hoặc ba lần một tuần để làm dịu nhẹ và giúp tái tạo da mặt một cách tự nhiên.

Không nên: Quên rửa và dưỡng ẩm mặt trước khi đi ngủ. Các bác sĩ da liễu khuyên rằng: Đối với làn da khô, hãy sử dụng dung dịch làm sạch nhẹ dịu và không chứa cồn. Sử dụng các sản phẩm dưỡng ẩm và hạn chế sử dụng nước nóng vì nó khiến tình trạng da khô càng trở nên tồi tệ hơn.

Cung cấp đủ ô xy cho da mặt

Nên: Cơ thể người đa phần là nước. Uống nhiều nước mỗi ngày, ít nhất là 8 cốc. Ngoài ra, hãy ăn trái cây và các loại rau có hàm lượng nước cao như dưa hấu, dưa chuột, cam, dâu, bưởi.

Không nên: Không nên quên sử dụng nước hoa hồng. Nước hoa hồng giúp ngăn ngừa và làm giảm bọng mắt vào buổi sáng, duy trì sự cân bằng pH và thúc đẩy quá trình hydrate hóa da vào ban ngày.

Bye bye các thể loại mụn cứng đầu

Nên: Rửa mặt bằng nước ấm, ba lần một ngày và mát xa nhẹ nhàng khuôn mặt của bạn theo vòng tròn, hãy sử dụng các loại sữa rửa mặt có có chứa alpha hydroxyl acid hoặc beta hydroxyl acid. Sau khi rửa mặt, vỗ nhẹ và thoa kem có chứa benzoyl peroxide. Bác sĩ Zaheer Ahmed, bác sĩ da liễu tại Max Hospitals cho biết: “Benzoyl peroxit có tác dụng kháng khuẩn cực tốt cho da”.

Không nên: Khi bạn đang cảm nhận được sự xuất hiện của các bé mụn trứng cá đỏng đảnh khó ưa, chỉ cần làm sạch khu vực đó bằng nước hoa hồng sau đó đặt một túi trà đã qua sử dụng và chườm lạnh trong 10 phút. Ngoài ra, nếu bạn phải đeo kính hãy chăm chỉ làm sạch chúng thường xuyên để dầu đọng ở đó không làm tắc các lỗ chân lông quanh vùng mũi và mắt.

Thực hiện quy định đeo khẩu trang khi di chuyển trên các phương tiện công cộng và các trung tâm vận chuyển khác

Việc di chuyển bằng các phương tiện vận chuyển công cộng làm gia tăng nguy cơ nhiễm và lây lan COVID-19 qua việc đưa mọi người tiếp xúc gần với người khác, thường xuyên trong một giai đoạn kéo dài và phơi nhiễm họ với các bề mặt thường xuyên chạm vào. Du lịch bằng máy bay thường đòi hỏi có thời gian xếp hàng tại khu vực kiểm tra an ninh và các nhà ga sân bay đông người. Đi lại bằng xe buýt, tàu hỏa và các phương tiện khác dùng cho vận chuyển quốc tế, liên bang hoặc trong tiểu bang cũng tạo ra những thách thức tương tự. Việc giữ khoảng cách 6 feet với người khác thường là chuyện khó có thể duy trì trên phương tiện vận chuyển công cộng. Mọi người có thể không giữ được khoảng cách khuyến nghị tối thiểu 6 feet với người khác ngồi gần bên hoặc từ những người đứng hoặc đi qua trên lối đi ở máy bay, tàu hóa hoặc xe buýt.

 

Việc đi lại đã dẫn tới và tiếp tục dẫn dẫn tới tình trạng lây lan vi-rút gây bệnh COVID-19 giữa các tiểu bang và trên quy mô quốc tế. Việc đeo khẩu trang che hoàn toàn mũi và miệng sẽ giúp giảm lây lan bệnh COVID-19. Những người chưa bao giờ bộc lộ các triệu chứng (không có triệu chứng) hoặc vẫn chưa bộc lộ các triệu chứng (tiền triệu chứng) có thể không biết rằng họ đã nhiễm bệnh nhưng vẫn có thể lây lan COVID-19 cho người khác. Khẩu trang cũng mang lại lớp bảo vệ cho người đeo

 

Đeo khẩu trang khi ở những nơi công cộng, tiếp xúc đông người

 

CDC đã ban hành lệnh yêu cầu tất cả du khách đều phải đeo khẩu trang che mặt khi đi trên phương tiện vận chuyển công cộng (bao gồm tất cả hành khách và nhân viên vận hành phương tiện). Mọi người phải đeo khẩu trang che toàn bộ cả mũi và miệng trong khi chờ xe, lên, xuống hoặc đi trên máy bay, tàu thủy, phà, tàu hỏa, tàu điện ngầm, xe buýt, taxi và xe đi chung khi họ đi vào, bên trong hoặc rời khỏi Hoa Kỳ và các vùng lãnh thổ thuộc Hoa Kỳ. Mọi người cũng phải đeo khẩu trang khi ở tại trung tâm đầu mối vận chuyển (vd. sân bay, bến phà hoặc bến xe buýt, ga tàu hỏa và ga tàu điện ngầm, cảng biển) và các địa điểm khác nơi, mọi người lên các phương tiện vận chuyển tại Hoa Kỳ và vùng lãnh thổ thuộc Hoa Kỳ.

 

Người vận hành phương tiện vận chuyển công cộng và trung tâm giao thông phải nỗ lực hết sức để đảm bảo rằng mọi người trên phương tiện vận chuyển đều phải đeo khẩu trang khi lên, xuống phương tiện và suốt hành trình hoặc khi đi vào khuôn viên của trung tâm giao thông. Tùy vào tình hình, người vận hành phải thực hiện những hoạt động sau:

  • Chỉ cho phép những người đeo khẩu trang vào hoặc lên phương tiện vận chuyển;
  • hướng dẫn mọi người rằng việc đeo khẩu trang trên phương tiện vận chuyển/trong khuôn viên là yêu cầu của luật liên bang và việc không tuân thủ yêu cầu này là vi phạm luật liên bang;
  • giám sát phương tiện/khuôn viên xem có bất kỳ người nào không đeo khẩu trang và yêu cầu họ tuân thủ quy định;
  • không cho những người từ chối tuân thủ vào hoặc buộc họ phải rời khỏi khuôn viên sớm nhất có thể và đảm bảo an toàn;
  • thông báo mọi người về yêu cầu này để đảm bảo họ biết và tuân thủ yêu cầu đeo khẩu trang. Các ví dụ về những thông báo như vậy được nhắn đi trong các ứng dụng, trên trang web hoặc qua email;
  • áp phích kèm hình minh họa ở nhiều ngôn ngữ; và in thông tin này trên các tấm vé.

Mọi người không buộc phải đeo khẩu trang trong các tình huống sau:

  • trong khi ăn uống hoặc uống thuốc trong một khoảng thời gian ngắn.
  • khi trao đổi, trong một thời gian ngắn, với một người bị khiếm thính khi khả năng nhìn miệng là yếu tố quan trọng để giao tiếp;
  • Nếu trên máy bay cần phải đeo mặt nạ ô xi vì mất áp suất trong khoang máy bay hoặc sự kiện khác ảnh hưởng tới việc thông gió trên máy bay;
    nếu bị bất tỉnh (vì các lý do khác không phải là ngủ), mất khả năng hoạt động, không thể tỉnh được hoặc không thể tháo khẩu trang mà không có sự trợ giúp;
  • hoặc khi cần thiết tạm thời tháo khẩu trang để xác minh danh tính như khi cơ quan quản lý an ninh giao thông vận tải (TSA) kiểm tra hoặc khi được nhân viên soát vé hoặc soát cổng hay bất kỳ nhân viên thực thi pháp luật yêu cầu làm vậy.

Các nhóm người sau được miễn trừ yêu cầu đeo khẩu trang:

  • Trẻ dưới 2 tuổi;
  • Người khuyết tật không thể đeo khẩu trang hoặc không thể đeo an toàn khẩu trang vì bất kỳ lý do nào liên quan tình trạng khuyết tật;
  • Người đeo khẩu trang sẽ tạo rủi ro về an toàn, sức khỏe tại nơi làm việc hoặc yêu cầu công việc theo quy định của liên bang hay theo hướng dẫn an toàn tại nơi làm việc.

Những người trên phương tiện thuộc danh mục phương tiện sau được miễn trừ khỏi yêu cầu đeo khẩu trang:

  • Phương tiện vận chuyển riêng chỉ vận hành vì mục đích cá nhân, phi thương mại;
  • Xe tải hoặc xe cơ giới thương mại, nếu tài xế là người duy nhất trên xe hoặc xe tải;
  • Phương tiện do Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (DOD) vận hành miễn là người vận hành phương tiện đó tuân thủ tất cả các yêu cầu của DOD nhằm tránh lây lan COVID-19.

Thử nghiệm Vaccine Pfizer có thể vô hiệu hoá được biến chủng mới ở Anh

Theo kết quả nghiên cứu mới nhất, máu của những người đã dùng 2 liều vắc-xin Pfizer-BioNTech ngừa COVID-19 có mức độ kháng thể cao, có thể vô hiệu hóa được một trong những biến chủng mới của SARS-CoV-2. Một số bệnh viện Mỹ áp dụng liệu pháp mới để trị chủng này.

Tháng 9/2020, các nhà khoa học lần đầu tiên phát hiện biến chủng SARS-CoV-2 ở Anh. Đến đầu tháng 12/2020, họ bày tỏ lo ngại rằng, chủng này có thể lây lan nhanh và hiệu quả hơn các chủng khác. Họ cũng lo ngại rằng, các loại vắc-xin ngừa COVID-19 hiện nay có thể không có tác dụng với biến chủng ở Anh. Sau đó, các nhà nghiên cứu ở một số nước khác phát hiện biến chủng Anh ở nước họ. Vì thế, các nhà khoa học của hai hãng Pfizer và BioNTech cùng với các nhà nghiên cứu của Đại học Mainz ở Đức đã thực hiện nghiên cứu mới về hiệu quả của vắc-xin đối với chủng mới.

Các nhà khoa học nói rằng, biến chủng ở Anh (tên chính thức là B.1.1.7) chứa một lượng lớn đột biến, gây ra 10 thay đổi trong chuỗi amino acid. Các amino acid này bao gồm protain gai (còn gọi là S protein) của SARS-CoV-2. Những gai này (khiến coronavirus có hình thức trông giống vương miện) là mục tiêu trọng yếu của hệ miễn dịch vì chúng cho phép SARS-CoV-2 tiếp cận, xâm nhập tế bào của con người.

Các nhà sản xuất vắc-xin đang kiểm tra tác dụng của sản phẩm đối với SARS-CoV-2 chủng mới ở Anh (Ảnh: Reuters)
Chiến dịch tiêm chủng vắc-xin trên toàn khối của EU đang xảy ra nhiều trục trặc, gây mâu thuẫn ngoại giao giữa các nước láng giềng đến mức Brussels cân nhắc áp lệnh hạn chế xuất khẩu vắc-xin.
Có một thực tế rất đáng lo ngại là một trong các đột biến diễn ra trong “miền liên kết thụ thể”. Đây là một phần của gai liên kết với các thụ thể trong màng của tế bào chủ. Những gai có sự đột biến này liên kết chặt hơn với các thụ thể.
Để nghiên cứu xem liệu 10 đột biến trong gai có ảnh hưởng gì tới hiệu quả của vắc-xin Pfizer-BioNTech, các nhà nghiên cứu đã xét nghiệm máu của 40 người tình nguyện dùng 2 liều cách nhau 21 ngày trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng. Trong số người tình nguyện, 14 người trong độ tuổi 57-73 và 26 người trong độ tuổi 23-55. Các nhà nghiên cứu đo lường khả năng vô hiệu hóa virus của máu tình nguyện viên. Cuối cùng, họ kết luận, vắc-xin Pfizer-BioNTech có nhiều khả năng cung cấp bảo vệ miễn dịch cho người dùng, giúp họ tránh nhiễm virus biến chủng ở Anh. Tuy nhiên, họ cũng nói rằng, cần thử nghiệm nhiều hơn để khẳng định kết quả nghiên cứu này.
Theo Trung tâm Phòng chống dịch bệnh Mỹ, ở bang Florida của Mỹ hiện có tới 186 ca nhiễm virus biến chủng có nguồn gốc từ Anh. Vì vậy, nhiều bệnh viện ở Florida đang áp dụng phương pháp điều trị mới để chống lại biến chủng của virus gây dịch bệnh COVID-19. Họ dùng phương pháp điều trị kháng thể đơn dòng, cụ thể là sử dụng thuốc có tên gọi Bamlanivimab. “Kháng thể đơn dòng cho thấy khá hiệu quả với biến chủng ở Anh”, TS Micael Lauzardo (ĐH Y khoa Florida) nói.
Các bệnh viện ở Florida đã nhận được 1.000 liều thuốc dành cho người từ 65 tuổi trở lên và có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2 trong vòng 10 ngày. Những người mới mắc bệnh sẽ được tiêm thuốc miễn phí.
Theo Medical News Today, UF Health